Tại Bệnh viện (BV) Đa khoa tỉnh Sóc Trăng vừa diễn ra Lễ chuyển giao kỹ thuật theo Đề án BV vệ tinh sau 2 năm thực hiện. Đây là kết quả từ chương trình chuyển giao kỹ thuật cho BV đa khoa tỉnh Sóc Trăng từ BV ĐH Y Dược TPHCM (BV ĐHYD TP.HCM).
Cảnh chuyển giao kỹ thuật can thiệp tim mạch giữa BV ĐH Y Dược TP.HCM với BV đa khoa tỉnh Sóc Trăng (Ảnh: BVCC).
Thực hiện quyết định số 4136/QĐ-BYT của Bộ Y tế, kể từ ngày 29/6/2018, BV ĐHYD TPHCM đã chính thức chuyển giao kỹ thuật theo Đề án BV vệ tinh cho BV Đa khoa tỉnh Sóc Trăng.
Kết quả sau 2 năm thực hiện đề án,BV ĐHYD TPHCM đã chuyển giao cho BV Đa khoa Sóc Trăng các kỹ thuật: Can thiệp mạch vành; Bệnh lý mạch m.áu, kỹ thuật chụp và can thiệp mạch số hóa xóa nền cơ bản, nâng cao; Can thiệp nội mạch thần kinh, Phẫu thuật thay khớp háng; Phẫu thuật thay khớp gối; Phẫu thuật nội soi khớp gối; Phẫu thuật nội soi khớp vai.
Các kỹ thuật đang thực hiện chuyển giao bao gồm: Can thiệp nội mạch thần kinh và Phẫu thuật chấn thương cột sống. Đây là các kỹ thuật hiện đại, phù hợp với xu thế và đáp ứng nhu cầu y tế ngày càng cao của người dân trong tỉnh và các vùng lân cận.
PGS TS BS. Trương Quang Bình trao chứng nhận chuyển giao kỹ thuật cho Khoa Nội tim mạch Bệnh viện Đa khoa tỉnh Sóc Trăng (Ảnh: BVCC).
Về nguồn nhân lực, BV ĐHYD TPHCM đã đào tạo 2 Bác sĩ, 4 Điều dưỡng, 1 Kỹ thuật viên chuyên ngành Tim mạch can thiệp và 4 Bác sĩ chuyên ngành Chấn thương chỉnh hình cho BV Đa khoa tỉnh Sóc Trăng. Đây là nhân tố quan trọng, giúp BV Đa khoa tỉnh Sóc Trăng điều trị kịp thời và hiệu quả nhiều trường hợp tại địa phương mà không cần phải chuyển lên tuyến trên.
Điều này còn giúp BV Đa khoa tỉnh Sóc Trăng đẩy mạnh công tác đào tạo cán bộ, chuyển giao kỹ thuật nhằm sử dụng hiệu quả cơ sở vật chất, thu hút nhiều người bệnh đến khám và điều trị.
Tính đến nay, BV Đa khoa tỉnh Sóc Trăng đã thực hiện được 491 ca can thiệp tim mạch, 54 ca thay khớp háng toàn phần. Việc triển khai các gói kỹ thuật trên diễn ra thuận lợi, góp phần cứu sống nhiều trường hợp bệnh nặng cũng như mang lại hiệu quả điều trị cao cho người bệnh.
Các đại biểu chụp hình lưu niệm (Ảnh: BVCC).
PGS TS BS. Trương Quang Bình – Giám đốc Trung tâm tim mạch, Phó Giám đốc BV ĐHYD TPHCM chia sẻ: “Việc chuyển giao thành công các gói kỹ thuật cho BV Đa khoa tỉnh Sóc Trăng thông qua đề án bệnh viện vệ tinh không chỉ giúp hạn chế tình trạng chuyển viện lên tuyến trên, tránh tình trạng quá tải tại tuyến trên, mà còn giúp người dân được khám chữa bệnh với trình độ chuyên môn cao ngay tại địa phương, đỡ tốn kém thời gian, chi phí đi lại, ăn ở…
Bên cạnh đó, đội ngũ bác sĩ của bệnh viện tuyến tỉnh cũng sẽ tự tin làm chủ nhiều kỹ thuật khó, phức tạp, giúp nhiều ca bệnh được cấp cứu kịp thời. Ngoài ra, đề án còn tạo điều kiện xây dựng được hệ thống chuyên ngành trên cả nước, tạo dựng sự kết nối làm việc giữa bệnh viện trung ương với các đơn vị tuyến dưới, từ đó giúp các ca bệnh khó được hội chẩn và cứu chữa một cách kịp thời, chính xác”.
Tiến Vượng
Theo giaoducthoidai
Suýt t.ử v.ong cả mẹ lẫn con vì “sinh thuận tự nhiên”
Chuyển dạ khi thai 40 tuần nhưng cổ tử cung không mở, vỡ ối, sốt cao, gia đình sản phụ kiên quyết không cho bác sĩ can thiệp, yêu cầu để “sinh thuận tự nhiên” khiến mẹ con sản phụ suýt nguy kịch.
Một ca đỡ sinh tại Bệnh viện ĐH Y dược TPHCM.
Bệnh viện ĐH Y dược TPHCM mới tiếp nhận sản phụ N.T.T. (32 t.uổi, ngụ tại TPHCM) nhập viện vào tuần thai thứ 40. Sau khi thăm khám, các bác sĩ cho biết chị T. đã có dấu hiệu chuyển dạ, thai to, khung xương chậu nhỏ, cổ tử cung không mở và vết mổ cũ. Với tình trạng này, các bác sĩ đ.ánh giá sản phụ không thể sinh tự nhiên qua ngả â.m đ.ạo, chỉ định nên mổ lấy thai để đảm bảo tính mạng cho thai nhi. Tuy nhiên sản phụ và gia đình không những không nghe theo lời khuyên của bác sĩ mà còn muốn “sinh thuận tự nhiên”, cương quyết từ chối mọi sự hỗ trợ của bác sĩ trong suốt cuộc sinh mà để sản phụ tự chịu đựng cơn đau, tự rặn…
Sau 2 giờ nhập viện, chị T. bị vỡ ối, nước ối vàng, đau bụng dữ dội, sốt cao, tim thai rất nhanh. Lúc này, bác sĩ trực đ.ánh giá chuyển dạ khó khăn, chỉ định truyền dịch, truyền thuốc hạ sốt, nhưng chị T. và gia đình vẫn không đồng ý thực hiện bất cứ can thiệp nào. Đồng thời, gia đình đưa ra rất nhiều yêu cầu như: không được thăm khám â.m đ.ạo, không để sản phụ sinh trên bàn mà phải sinh trong tư thế đứng, không được tiêm kháng sinh, truyền hạ sốt cho sản phụ, không được tiêm vắc xin cho con khi sinh ra, phải để nửa tiếng mới được cắt dây rốn, không cho con bú sữa bình…
Qua theo dõi phản ứng của vợ chồng chị T., các bác sĩ được biết, vợ chồng chị T. hiện đang là thành viên của một cộng đồng chọn sinh con theo phương pháp thuận tự nhiên. Điều này khiến chị T. và gia đình quyết định sinh thuận tự nhiên và từ chối mọi can thiệp của bác sĩ, thậm chí còn ký giấy cam kết tự chịu trách nhiệm khi có trường hợp xấu xảy ra.
Chỉ đến khi dấu hiệu nguy hiểm lên thai đến mức báo động, lãnh đạo Khoa kiên quyết giải thích rằng mổ lấy thai là để cứu sống thai nhi thì sản phụ và gia đình mới đồng ý để bác sĩ can thiệp. Ca mổ thành công nhưng do vỡ ối lâu nên mẹ con chị T. đều phải tiêm kháng sinh, riêng em bé phải được hỗ trợ hô hấp.
Sau khi ca mổ thành công, chị T. và gia đình mới bộc bạch rằng, vào tháng thứ tư của thai kỳ, chị biết đến trào lưu “sinh con thuận tự nhiên” trên mạng xã hội. Sau đó, chị quyết tâm sinh con theo phương pháp này, không để bác sĩ can thiệp vì muốn con được sinh ra được khỏe mạnh và an toàn nhất. Nếu biết trước tình trạng của mình lúc tự sinh con có nhiều nguy hiểm đến vậy, có lẽ chị đã nghe theo lời khuyên của bác sĩ ngay từ đầu.
“Sinh thuận tự nhiên” là một trào lưu mới xuất hiện gần đây khi mà sản phụ bác bỏ mọi sự can thiệp của y tế để tự mình sinh con. Họ cho rằng những kỹ thuật y tế tiên tiến sẽ khiến bản thân và con cái họ gặp phải những nguy cơ tiềm ẩn sau này. Tuy nhiên trên thực tế, có không ít trường hợp nguy hiểm xảy ra khi mà các sản phụ lầm tưởng về lợi ích kỳ diệu của “sinh thuận tự nhiên”, cương quyết tự sinh con mà không chịu nghe theo lời khuyên, chỉ định của bác sĩ. Nguyên nhân của tình trạng trên là bởi sản phụ và người thân tin vào những thông tin chưa đầy đủ, chưa chính xác thậm chí phản khoa học trên các mạng xã hội. Với những nhận thức chưa đẩy đủ về “sinh thuận tự nhiên”, không ít sản phụ đã đẩy bản thân và thai nhi vào tình huống nguy hiểm.
TS BS. Trần Nhật Thăng – Trưởng khoa Phụ sản Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM cho biết, việc lựa chọn phương pháp sinh phù hợp để hạn chế tối đa những nguy cơ gây hại đến sức khỏe của mẹ và bé là điều mà cả sản phụ, gia đình và các bác sĩ, nhân viên y tế đều hướng đến. Hơn ai hết, bác sĩ và nhân viên y tế là người thấu hiểu được lợi ích và nhu cầu được sinh tự nhiên của sản phụ. Tuy nhiên, nếu như không có quá trình theo dõi và hỗ trợ đúng mức của y học hiện đại thì quá trình sinh nở đều là những giai đoạn nguy hiểm cho cả mẹ lẫn con. Mục tiêu của y khoa là nhận biết trường hợp nào không thể sinh tự nhiên để can thiệp đúng phương pháp, đúng thời điểm nhằm đảm bảo sự an toàn cho cả mẹ và bé.
Việc chọn sinh tự nhiên đã được ứng dụng nhiều tại các nước phát triển như Mỹ, Anh, Canada… Tuy nhiên để thực hiện phương pháp này, sản phụ và gia đình phải luôn có sẵn một ekip hỗ trợ từ bác sĩ chuyên môn cho đến chuyên viên tư vấn tâm lý. Bên cạnh đó, sản phụ còn phải được chuẩn bị chu đáo các trang thiết bị tại nhà. Đến khi chuyển dạ, toàn bộ ekip sẽ có mặt để theo dõi và đảm bảo quá trình sinh con của sản phụ diễn ra an toàn và theo trình tự.
Tại Việt Nam, phương pháp sinh thuận tự nhiên đã nở ra khá rầm rộ tại trong những năm gần đây. Tuy nhiên, phương pháp này lại được truyền bá trên những trang mạng không chính thống, không nêu rõ những vấn đề nguy hiểm có thể xảy ra cho thai nhi và sản phụ. Điều này đã gây ra nhiều lầm tưởng cho các bà mẹ về việc “tự sinh tự diệt”, không cần đến sự can thiệp y tế nào.
ThS BS. Lê Thị Kiều Dung – Khoa Phụ sản Bệnh viện ĐH Y dược TPHCM cho biết, mục đích cuối cùng của sản phụ và nhân viên y tế đều hướng đến “mẹ tròn, con vuông”, do đó sản phụ nên tham khảo thông tin trên những trang y khoa chính thống và được tư vấn cụ thể bởi các chuyên gia, từ đó có những lựa chọn đúng đắn và an toàn cho cả mẹ lẫn con.
Theo infonet